Chuyên đề Vẻ đẹp ngôn từ nghệ thuật truyện Kiều của Nguyễn Du qua một số đoạn trích đã học - Lâm Văn Công

doc 17 trang lynguyen 01/12/2025 110
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Vẻ đẹp ngôn từ nghệ thuật truyện Kiều của Nguyễn Du qua một số đoạn trích đã học - Lâm Văn Công", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Vẻ đẹp ngôn từ nghệ thuật truyện Kiều của Nguyễn Du qua một số đoạn trích đã học - Lâm Văn Công

Chuyên đề Vẻ đẹp ngôn từ nghệ thuật truyện Kiều của Nguyễn Du qua một số đoạn trích đã học - Lâm Văn Công
 Lâm Văn Công
CHUYÊN ĐỀ:
 VẺ ĐẸP NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU
 CỦA NGUYỄN DU
 QUA MỘT SỐ ĐOẠN TRÍCH ĐÃ HỌC.
A: CHUẨN BỊ : 
 I . Mục tiêu cần đạt : Giúp học sinh: 
 - Nắm được vẻ đẹp về ngôn từ nghệ thuật trong câu thơ Truyện Kiều của Nguyễn 
Du . 
 - Biết nhận diện và phân tích một số từ ngữ hay, từ ngữ đắt qua các đoạn trích 
Truyện Kiều đã học trong chương trình Ngữ văn 9 -Tập 1 .
 - Biết yêu tiếng nói dân tộc và có ý thức học hỏi cách sử dụng từ ngữ , cách tạo 
từ mới trong Truyện Kiều để làm giàu thêm vốn từ Tiếng Việt .
 II . Ý nghĩa của chủ đề :
 Trong lịch sử văn chương của dân tộc, người ta dành cho Truyện Kiều của 
Nguyễn Du một sự tôn vinh đặc biệt . Tác phẩm là Tập đại thành của một nghìn 
năm văn học thời phong kiến ; là một tác phẩm đạt đến đỉnh điểm của sự hoàn thiện . 
Cùng với nội dung phong phú và sâu sắc , về mặt nghệ thuật , Truyện Kiều là một 
kiệt tác với bút pháp của một nghệ sĩ thiên tài hầu như trên tất cả các phương diện 
của nghệ thuật truyện thơ Nôm như thể loại, bố cục, kết cấu , hình tượng nhân vật , 
nghệ thuật thể hiện nội tâm , miêu tả ngoại hình , ngôn ngữ , văn phong , bút pháp tả 
cảnh ngụ tình v.v Ở phương diện nào Nguyễn Du cũng đều có những đóng góp to 
lớn có ý nghĩa thời đại . Riêng về phương diện ngôn từ .Ông từng được mệnh danh 
là nhà nghệ sĩ lớn về ngôn từ , là nghệ sĩ bậc nhất về ngôn từ trong văn học Trung 
đại Việt Nam .
 III . Những tài liệu cần đọc và chuẩn bị cho bài giảng :
Các đoạn trích Truyện Kiều trong chương trình ngữ văn 9 - SGK và SGV - Tập I 
(2)Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du .
 1 Lâm Văn Công
 1 .Vấn đề sử dụng từ ngữ đặc sắc trong Truyện Kiều :
 Xưa nay, nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều , người ta thường 
hay chú ý trước hết đế những chỗ dùng từ chính xác, từ hay , tinh tế thường được 
gọi là lối dùng từ đắt của Nguyễn Du ,cũng như cách dùng hư từ , khối lượng từ 
đồng nghĩa , từ có phong cách khẩu ngữ, từ mang phong vị ca dao , thành ngữ, tục 
ngữ ...
 Ví như hai từ đầy đặn , nở nang trong câu thơ : Khuôn trăng đầy đặn / Nét ngài 
nở nang khi tác giả dùng để miêu tả Thuý Vân. Hai từ đó không chỉ đơn thuần là 
miêu tả khuôn mặt tròn trịa ,đầy đặn như mặt trăng đêm rằm của nàng Vân , cũng 
như cả cái nét ngài minh bạch ,rõ ràng , uốn cong thanh tú của nàng mà đó còn là sự 
đầy đặn, mỹ mãn của số phận , của cuộc đời nàng . Hai chữ thua , nhường trong câu 
thơ Mây thua nước tóc , tuyết nhường màu da dùng để chỉ thiên nhiên và cũng chính 
là tạo hoá sẽ chịu thua mái tóc mây, dài, xanh mượt, màu da trắng như tuyết để 
nhường bước cho nàng đi trên con đường bằng phẳng , không hề có chông gai .
 Hay như chữ thông minh trong câu Thông minh vốn sẵn tính trời dùng để nhấn 
mạnh trí tuệ thiên bẩm của nàng Kiều mà nhiều người cho rằng đó là một nhãn tự 
nhờ cách nhà thơ đưa từ này lên đầu câu , nó không chỉ nhằm khắc hoạ một tính 
cách mà là cả một nhân cách . Kiều đẹp sắc sảo, mặn mà - Một vẻ đẹp vừa rực rỡ , 
vừa hấp dẫn , rất có hồn , điều đó đã quá rõ rồi. Nhưng Kiều chiếm được cảm tình 
nơi bạn đọc không phải vì cái vẻ sắc nước hương trời ,cùng tài năng hiếm có cuả 
nàng , mà chủ yếu là phẩm cách tuyệt vời và một trí tuệ hơn người . Trong tác phẩm 
Truyện Kiều , Nguyễn Du đã nhiều lần viết về tài hoa và trí tuệ theo kiểu ấy . Chẳng 
hạn như câu Anh minh phát tiết ra ngoài  Điều đó cho thấy ánh sáng trí tuệ chính 
là yếu tố nổi bật trong tài hoa của Thuý Kiều . 
 Còn như từ não trong câu Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân . Ở đây , 
Nguyễn Du đã sử dụng từ não rất chính xác .Nội hàm ý nghĩa của từ này diễn đạt nỗi 
buồn đã có sẵn tự trong lòng . Nó không chỉ đơn thuần là sầu , buồn , là những từ 
diễn đạt nỗi buồn trên sắc diện con người mà là não (não lòng , não nuột) . Âm thanh 
 3 Lâm Văn Công
 Như thế cũng chưa đủ . Cái cách cò kè thêm bớt đến cả một giờ lâu rồi mới ngã giá 
vàng ngoài bốn trăm thì Nguyễn Du đã lột tả được bộ mặt gớm ghiếc, giả dối của 
Mã Giám Sinh . Hắn đã hiện nguyên hình là một gã con buôn lọc lõi chỉ cần biết một 
điều là làm sao mua được món hàng với giá hời nhất , chỉ cần một vốn mà có đến 
bốn lời là được .Chỉ với một từ cò kè rất con buôn Nguyễn đã cho ta thấy được bộ 
mặt tàn ác, dơ bẩn nhất của bọn buôn thịt bán người mà Mã Giám Sinh là đại diện .
Và trong đoạn đời đầu tiên của bước lưu lạc, lúc Kiều được đưa ra ở lầu Ngưng Bích 
. Nàng đã sống trong một tâm trạng buồn tủi , chua xót đến cực độ . Nàng đâu còn 
cơ hội khoá kín tuổi xuân của mình nữa . Nàng không còn giữ được chữ trinh đối với 
chàng Kim thì hai chữ khoá xuân lại đầy mỉa mai đối với nàng . Thực chất nàng 
đang bị Tú Bà giam lỏng để chờ ngày kén chồng tử tế , nhưng thực ra là mụ đang rắp 
tâm thực hiện một âm mưu mới .
 Trong cảnh vò võ cô đơn , trơ trọi nàng đã tưởng nhớ đến người yêu . Chỉ một từ 
tưởng mà nói được bao điều . Nếu mơ là luôn nghĩ đến những kỉ niệm , những điều 
tốt đẹp về nhau ; hay nhớ cũng là nghĩ đến những điều tốt đẹp nhưng lại có thêm ý 
mong mỏi có ngày gặp lại thì tưởng cũng là mơ là nhớ nhưng với Kiều chỉ là tưởng , 
chỉ xem mối tình đầu trong trắng, ngây thơ của mình là một kỉ niệm đẹp , không 
dám mơ tưởng những gì xa xôi lại càng không dám mong gì ngày gặp lại .
 Nhớ người yêu , Kiều cũng rất nhớ về cha mẹ . Nhưng Nguyễn Du không dùng 
thương hay nhớ mà lại dùng một chữ xót ở đầu câu thơ . Bởi xót đâu chỉ đơn thuần 
là nhớ , là thương mà còn bao hàm cả nỗi giận đời và trách mình .
 Ngay cả việc sử dụng điệp ngữ buồn trông ở cuối đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích 
ta càng thấy Nguyễn Du không hề vô tình khi đặt chữ buồn đứng trước chữ trông 
.Buồn mà trông ,buồn rồi mới trông là nỗi buồn thấm sâu tự đáy lòng Kiều để rồi 
trông vào mọi vật nàng chỉ thấy thấp thoáng mơ hồ , tàn tạ, héo uá như chính cuộc 
đời của nàng cùng với nỗi lo sợ hãi hùng về một tương lai mờ mịt . Thật đúng là 
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ .
 5 Lâm Văn Công
 Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu / Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.
 * Gợi ý : 
 Xiêu : Là nỗi khiếp sợ, hãi hùng của Hoạn Thư trông lên thấy người ngồi ghế 
Chánh án chính là Thuý Kiều .
( GV liên hệ thêm một số câu thơ khác có sử dụng từ xiêu như:
 - Sóng tình dường đã xiêu xiêu / Xem trong âu yếm có chiều lả lơi .
 - Lạ cho cái sóng khuynh thành / Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi.
 - Sinh đà phách lạc hồn xiêu / Thương ôi chẳng phải nàng Kiều ở đây.
 - Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu / Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca .
 - Nàng thì thật dạ tin người / Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu.)
 2 . Cảm nhận của em về cách sử dụng ngôn từ nghệ thuật qua hai câu thơ sau :
 Vợ chàng quỷ quái tinh ma / Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau .
*Gợi ý : 
 Hoạn Thư đã quỷ quái tinh ma ấy vậy mà phải bị Thuý Kiều trị tội , chẳng khác 
nào kẻ cắp ranh mãnh mà lại bị bà già bắt được, âu chi cũng là chuyện không ngờ .
 3 . Nhận xét của em về mối quan hệ giữa chữ tài và chữ tâm ( lòng ) trong Truyện 
Kiều khi Nguyễn Du mở đầu tác phẩm của mình bằng hai câu : Trăm năm trong cõi 
người ta / Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau và kết thúc bằng sự trăn trở về tâm 
và tài : Thiện căn ở tại lòng ta / Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài .
 * Gợi ý 
 - Hai câu mở đầu nói về thuyết tài - mệnh tương đố ; tài sắc mâu thuẫn với mệnh 
trời nghiệp chướng Chữ tài liền với chữ tai một vần ; tài hoa sẽ bạc mệnh .
 - Hai câu ở phần cuối tác phẩm : Truyện Kiều nói nhiều đến chữ tài: tài t ử, tài 
sắc, tài danh, thiên tài, anh tài, gồm tài Song tài không phải là lý do chủ yếu của 
truyện mà là chữ tâm - tức cái tình , tấm lòng . Chính chữ tâm đã giúp Kiều nhận ra 
vẻ đẹp tâm hồn nơi Kim Trọng, khóc than Đạm Tiên; thúc giục nàng bán mình 
chuộc cha, trao duyên cho Thuý Vân ; cũng chính chữ tâm khiến nàng tự sát, nhắm 
mắt chạy theo Sở Khanh, chữ tâm đã khiến nàng chọn Từ Hải , báo ân báo oán , tha 
 7 Lâm Văn Công
bình lặng như mặt nước hồ thu ; nét mày uốn cong thanh tú như dáng núi mùa xuân 
.Thật là một dung nhan rực rỡ , sắc sảo mặn mà , vừa có duyên, vừa có hồn . Nhưng 
đẹp đến độ sắc nước hương trời , chim sa cá lặn , nước thành nghiêng đổ , hoa phải 
ghen , liễu phải hờn tất cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, đau khổ  Mười lăm năm 
lưu lạc chìm nổi của Kiều đã chứng minh rõ điều đó .
 Là một nghệ sĩ về ngôn từ , Nguyễn Du không sử dụng những thi liệu cổ ấy 
một cách máy móc rập khuôn mà sự sáng tạo của nhà thơ là rất lớn . Nói tới nỗi 
buồn của người đẹp , nhà thơ gắn với những thềm hoa ,lệ hoa , rồi nét buồn như cúc 
, điệu gầy như mai  Nói chung , qua việc sử dụng những thi liệu cổ nhà thơ đã tạo 
ra những từ ngữ rất riêng , rất Nguyễn Du , nhưng vẫn là ngôn ngữ dân tộc .
Ngôn từ thiên nhiên (vũ trụ thi ca) của Truyện Kiều .
 Theo tác giả Đặng Tiến thì vũ trụ thi ca trong Truyện Kiều là một không gian với 
chân trời rộng . Ngoài thảm cỏ non phải xanh tận chân trời ( Cảnh ngày xuân) thì 
không gian còn là một vũ trụ rộng, trống,mờ xa tít tắp với vẻ non xa , tấm trăng gần ; 
với cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia (Kiều ở lầu Ngưng Bích). Đó là một vũ trụ từ 
chối cuộc sống, từ chối con người -một vũ trụ mà cảnh vật bốn bề bát ngát xa trông, 
bên thì cồn cát nhấp nhô như sóng lượn , bên thì bụi hồng trải dài khắp dặm xa mênh 
mông .
 Ngoài ra, trong Truyện Kiều Nguyễn Du còn sử dụng rất nhiều ngôn từ vũ trụ thi 
ca : Con đường khuya thì phải ngắt tạnh mù khơi , màu của rừng thu phải là màu 
quan san , khung trời thương nhớ phải gợn áng mây Tần xa xa , đến túp lều cỏ bên 
sôngTiền Đường cũng phải là Một gian nước biếc mây vàng chia đôi . Bên cạnh đó 
còn có những dặm vi lô hiu hắt , những bờ liễu loi thoi , những rừng phong quan tái . 
Rồi đến cảnh màu xanh tơ liễu bên cầu , gió cây trút lá , mấy ngàn dâu xanh xuất 
hiện trong Truyện Kiều những giờ phút chia phôi , những lúc bước chân ngập ngừng 
, những lúc tâm hồn phân tán  Dường như nhà thơ muốn thu nhận cả đất trời nhân 
loại bằng cái nhìn phơi trải trong hình ảnh non phơi bóng vàng , cái nhìn đo lường 
 9 Lâm Văn Công
Thúc Sinh v.v... Màu cỏ cũng đa dạng : khi thì Cỏ non xanh tận chân trời , khi thì 
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh khi thì cỏ lợt màu sương , khi thì cỏ áy bóng 
tà, khi thì Một vùng cỏ mọc xanh rì  Với Ngyuễn Du màu sắc là sản phẩm của 
cảnh vật và tâm lý . Màu cỏ non xanh gắn với bao cảm xúc bao la về viễn cảnh của 
cuộc đời , với vẻ thanh tân, trinh trắng của một vài bông hoa lê đầu mùa , Ngọn cỏ 
nửa vàng nửa xanh như cuộc đời dang dở . Cỏ áy bóng tà - cỏ nhuốm ánh vàng của 
nắng chiều như có cái gì xốn xang, day dứt .
 Màu sắc trong Truyện Kiều còn là màu sắc của tình cảm . Đó là những màu quan 
san, màu quan tái , màu khơi trêu , màu của nỗi nhớ Bốn phương mây trắng một màu 
/ Trông vời cố quốc biết đâu là nhà . Hay trời cao trông rộng một màu bao la . Có thể 
nói, Nguyễn Du không chỉ nắm bắt sắc màu của sự vật mà còn nắm bắt và diễn tả cả 
sắc màu tình cảm nhuốm đậm lên cảnh vật, không gian làm cho phong cảnh trở nên 
sinh động, có hồn 
 5.Về cách sử dụng hư từ :
 Theo ý kiến của nhiều người thì vấn đề dùng hư từ chỉ có Truyện Kiều của 
Nguyễn Du là dùng đúng nhất .Cụ thể là các chữ : bao, bấy được dùng một cách độc 
chiếc trong Truyện Kiều Trải bao thỏ lặn ác tà ; Quản bao tháng đợi năm chờ ; Trời 
Liêu non nước bao xa ; Biết bao duyên nợ thề bồi ; Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao . 
Năm chữ bao ấy đều dùng chữ bằng nào mà cắt nghĩa được cả : trải bằng nào ngày 
đêm ; đợi chờ đến bằng nào năm tháng ; xa bằng nào ; thề bồi bằng nào ; đội trên 
đầu bằng nào . Tất cả đều có ý hỏi để tỏ ra nghiã là nhiều không phải ít . Cũng vậy, 
chữ bấy được dùng độc chiếc như : Khéo vô duyên bấy là mình với ta ; Phủ phàng 
chi bấy hoá công ; Trời làm chi cực bấy trời ; Thân sao bướm chán , ong chường bấy 
thân ; Hoa sao hoa khéo đoạ đày bấy hoa . Năm chữ bấy ấy đều dùng bằng ấy mà cắt 
nghĩa được cả : vô duyên bằng ấy , phũ phàng bằng ấy , cực bằng ấy , chán chường 
bằng ấy , đoạ đày bằng ấy ; Đều có ý tỏ lòng thương tiếc hoặc trách móc .
 Rồi đến chữ bây , nhưng chữ này không thể dùng độc chiếc ( Lão kia có giở bài 
bây) .
 11

File đính kèm:

  • docchuyen_de_ve_dep_ngon_tu_nghe_thuat_truyen_kieu_cua_nguyen_d.doc