Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài tập làm văn trong chương trình Ngữ văn 8
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài tập làm văn trong chương trình Ngữ văn 8", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài tập làm văn trong chương trình Ngữ văn 8
Đề tài sáng kiến Môn Ngữ văn 8 ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LÀM TỐT BÀI TẬP LÀM VĂN TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 8 I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1. Lí do chọn đề tài: Người giáo viên bao giờ cũng muốn học trò của mình làm được những bài văn hay nhưng đó không phải là một việc dễ. Bài văn hay trước hết phải là viết đúng, tức là đúng theo nghĩa tương đối, nghĩa là trong khuôn khổ nhà trường. Mà hay và đúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Một bài văn hay trước hết phải viết theo đúng yêu cầu của đề bài, đúng những kiến thức cơ bản, hình thức trình bày đúng quy cách . Để làm được những yêu cầu trên thì các em phải xác định đúng yêu cầu của đề bài là rất cần thiết, bước này giúp học sinh thể hiện đúng chủ đề của bài văn, tránh lạc đề hay lệch đề. Xác định đúng yêu cầu của đề cũng giúp người viết lập được một dàn ý tốt và cũng tránh được sự dài dòng, lan man “dây cà ra dây muống”, “ trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” tạo được sự thống nhất, hài hoà giữa các phần mở bài, thân bài và kết bài của bài văn. Bên cạnh đó việc viết đúng kiến thức cơ bản cũng vô cùng quan trọng, kiến thức cơ bản là “bột”, “có bột mới gột nên hồ”. Nhưng hình thức trình bày cũng không kém phần quan trọng vì là sự thể hiện hình thức bố cục của bài văn trên trang giấy. Một bài văn đúng quy cách là bài văn mà khi nhìn vào tờ giấy, chưa cần đọc đã thấy rõ ba phần: Mở bài, thân bài và kết bài. Muốn thế người viết không chỉ phải chú ý đến nội dung mà hình thức cũng phải rõ ràng. Mà trong thực tế dạy – học tôi thấy bài văn của học sinh mình chưa đáp ứng được những yêu cầu của một văn bản trong nhà trường. Bài văn của các em vẫn còn hiện tượng lạc đề, lệch đề do không chú ý đến việc tìm hiểu đề. Đoạn văn trong bài thường sai quy cách. Bên cạnh đó là việc giữa các đoạn văn chưa có sự liên kết. Do đó, tôi thấy cần phải tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra giải pháp tốt nhất giúp học sinh làm tốt bài tập làm văn. Qua thời gian -1- Nguyễn Thị Thu Hường Trường THCS An Phú Đề tài sáng kiến Môn Ngữ văn 8 II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1. Cơ sở lí luận của vấn đề: Môn Ngữ văn 8 trong chương trình THCS nói riêng và các bộ môn khác trong nhà trường nói chung có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh 4 kĩ năng đó là: “nghe - nói - đọc - viết”. Trong đó, phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp các phân môn khác. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản, đó là bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy - chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống lao động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói - ngôn bản, và dưới dạng viết - văn bản) giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn Ngữ văn nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng. Vấn đề đặt ra là: người giáo viên dạy tập làm văn như thế nào để học sinh viết tốt bài văn của mình? Cách thức tổ chức, tiến hành tiết dạy Tập làm văn ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn? Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là phân môn khó trong các phân môn của môn Ngữ văn. Do đặc trưng phân môn Tập làm văn với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: miêu tả, kể chuyện, biểu cảm, nghị luận, ... Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập này, học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói, ngại viết. 2. Thực trạng của vấn đề: Về phía người giáo viên, trước đây khi dạy văn tự sự cho các em, tôi mới chỉ giúp các em nắm bắt được những nội dung cơ bản trong sách giáo khoa. Trong quá trình dạy chỉ dạy tập làm văn ở những tiết học về tập làm văn, chưa tận dụng được thời gian ở các phân môn khác để tích hợp với phần tập làm văn. Đặc biệt chưa chú trọng luyện tập và ra bài tập về nhà cho các em để từ đó hình thành kĩ năng làm bài. -3- Nguyễn Thị Thu Hường Trường THCS An Phú Đề tài sáng kiến Môn Ngữ văn 8 Do nắm được hạn chế đó của học sinh nên tôi luôn hướng dẫn học sinh thực hiện thao tác này và nó được lặp đi lặp lại ở mỗi bài viết cũng như trước các đề trong bài học. Trên cơ sở đó các em sẽ biến nó thành một kĩ năng cần thiết trước khi viết bài. Để học sinh xem tìm hiểu đề là một bước không thể thiếu khi làm bài thì giáo viên phải giúp các em thành thạo bước này trong quá trình dạy học. Người giáo viên nên tận dụng thời gian để cho các em luyện tập. Ví dụ: Như ra đề rồi yêu cầu HS về nhà thực hiện, trước các bài viết số 1, số 2, trong các đề có trong SGK, Để giúp học sinh tìm hiểu đề, trước một đề bài tôi thường yêu cầu học sinh đọc nhiều lần; lấy bút chì gạch chân những từ cần chú ý, chép lại đề với những ý có gạch đầu dòng để làm cho nổi bật các yêu cầu của đề; xác định ba yêu cầu của đề. Kết quả của bước tìm hiểu đề phải giúp học sinh xác định được tất cả các yêu cầu của đề bài: - Kiểu bài: Tự sự hay miêu tả, tường thuật hay giải thích, Lời yêu cầu về kiểu bài: theo lối trực tiếp – nói thẳng (như hãy kể ) hay lời yêu cầu gián tiếp – nói vòng (như Em thấy mình đã khôn lớn ) - Đề bài và giới hạn: học sinh cần tìm hiểu rõ qua từng từ ngữ để xác định giới hạn của đề bài. Chỉ một sơ suất nhỏ trong việc xác định giới hạn của đề bài cũng có thể dẫn các em từ tản mạn, xa đề đến lạc đề Ví dụ : Cho đề bài: Em hãy kể lại một kỉ niệm sâu sắc thời thơ ấu. Trước đề này có rất nhiều học sinh kể ra hai, ba kỉ niệm, không có kỉ niệm nào được kể một cách đầy đủ (nhưng đề yêu cầu kể một kỉ niệm). Tìm hiểu đề là bước quan trọng, tuy nhiên trong chương trình học các em lại chỉ được học không đến một tiết (ở lớp 6). Thêm vào đó ở chương trình Ngữ văn 8 các em học văn tự sự chỉ trong 13 tiết nên thời gian không nhiều. Để khắc phục được khó khăn đó và cho học sinh thực hiện tốt bước này tôi đã kết hợp thời gian trên lớp, thời gian ở nhà của các em để hướng dẫn và cho các em thực hành. -5- Nguyễn Thị Thu Hường Trường THCS An Phú Đề tài sáng kiến Môn Ngữ văn 8 trước bước tìm hiểu đề cho các đề có trong phần Viết bài tập làm văn số 1 – văn tự sự. Tới tiết 11-12, trước khi viết bài giáo viên yêu cầu 1 hoặc 2 học sinh trình bày kết quả việc tìm hiểu đề rồi mới đi vào viết bài. Học sinh trả lời : Đề 1: Kể lại những kỉ niệm trong ngày đầu tiên đi học. - Kiểu bài: kể (tự sự), yêu cầu trực tiếp. - Giới hạn: những kỉ niệm trong ngày đầu tiên đi học (chỉ trong ngày đầu tiên mà thôi). Đề 2. Người ấy (bạn, thầy, người thân, ) sống mãi trong lòng tôi. - Kiểu bài: kể (tự sự), yêu cầu gián tiếp. - Giới hạn: chỉ kể về một người thân (có thể là một kỉ niệm khó quên với người đó). Ví dụ 3: Tương tự như ví dụ 2, trước khi Viết bài viết số 2, giáo viên cũng yêu cầu học sinh thực hiện bước tìm hiểu đề. Trong quá trình dạy – học (nhất là ở tiết trả bài) tôi đã cho học sinh thấy một cách nghiêm túc rằng lạc đề là lỗi nặng nhất, nghiêm trọng nhất của một bài tập làm văn. Một bài văn lạc đề dù có những đoạn văn hay đến đâu cũng không thể đạt được điểm số cần thiết. Đối với giáo viên, trước một đề tập làm văn việc tìm hiểu đề là đơn giản nhưng với học sinh bước này rất quan trọng. Vì vậy, trước bất cứ một đề văn nào giáo viên luôn yêu cầu học sinh thực hiện bước này. Có thể nói rằng đây là một bước mất ít thời gian của tiết học nhưng nó mang lại hiểu quả rất tốt cho học sinh. 3.2. Viết đoạn văn trong văn bản tự sự : Thế nào là đoạn văn? Đoạn văn là đơn vị cấu tạo nên văn bản, bắt đầu từ chữ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành. Đoạn văn thường có câu chủ đề hoặc từ ngữ chủ đề. Ta thường có đoạn văn diễn dịch, quy nạp, song hành, -7- Nguyễn Thị Thu Hường Trường THCS An Phú Đề tài sáng kiến Môn Ngữ văn 8 có đoạn văn thứ hai và đoạn văn thứ ba được viết theo lối diễn dịch (câu chủ đề nằm ở đầu đoạn). Khi học sinh nhận diện đúng đoạn văn tức là các em đã nắm được kiến thức về đoạn văn. Từ đây giáo viên bắt đầu cho các em thực hành viết đoạn văn. Trong quá trình học, học sinh được học rất nhiều văn bản tự sự. Đó là điều kiện giúp các em viết tốt đoạn văn tự sự. Khi cho học sinh thực hành viết đoạn văn giáo viên cũng cần chia làm hai giai đoạn: trước hết cho học sinh viết đoạn văn với câu chủ đề cho trước, tiếp theo mới là viết theo yêu cầu mà không có câu chủ đề (học sinh tự đặt câu). Ví dụ 1: Khi các em học xong văn bản “Lão Hạc” của Nam Cao (tiết 13 -14, bài 4) tôi cho học sinh bài tập về nhà: Về nhà mỗi em viết một đoạn văn nói về Lão Hạc – người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng tám (cho HS câu chủ đề: Lão Hạc là con người nghèo khổ nhưng lão có nhiều phẩm chất đáng quý.) Tới tiết 16 – Liên kết đoạn văn trong văn bản, khi kiểm tra bài cũ xong, GV mời một HS trình bày đoạn văn của mình cho thầy cùng cả lớp nghe rồi GV nhận xét. Cuối tiết học GV thu bài lại để về nhà chấm, nhận xét và sửa cho HS. Ví dụ 2: Khi dạy xong tiết 21 – 22, văn bản “Cô bé bán diêm”, GV ra bài tập cho HS về nhà làm: Em thử tưởng tượng mình là người chứng kiến cái chết của cô bé trong truyện Cô bé bán diêm của An – đéc – xen, bây giờ các bạn muốn nghe em kể lại cái chết của cô bé. Vậy em hãy viết một đoạn văn kể lại cho các bạn cùng nghe. Tới tiết học tiếp theo giáo viên thu bài của các em về nhà chấm, sửa và nhận xét trong bài viết cho các em. Khi trả lại bài cho học sinh, giáo viên cho đọc một số bài viết tốt để các em rút kinh nghiệm cho bài của mình. Ví dụ 3: Bài Từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội (tiết 17 – bài 5) có nội dung tương đối ngắn, bài tập dễ nên giáo viên cho học sinh làm bài tập ở -9- Nguyễn Thị Thu Hường Trường THCS An Phú Đề tài sáng kiến Môn Ngữ văn 8 Trong chương trình ngữ văn 8 học sinh đã được học “Liên kết các đoạn văn trong văn bản” ở tiết 16, bài 4. Trên cơ sơ bài học này giáo viên hướng dẫn học sinh thực hành việc liên kết đoạn văn do các em tạo ra. Trước hết giáo viên cho học sinh làm bài tập nhận diện các phương tiện liên kết đoạn văn. Ví dụ 1: Khi dạy xong bài “Liên kết các đoạn văn trong văn” - tiết 16, bài 4, giáo viên yêu cầu: về nhà các em đọc văn bản “Cô bé bán diêm” của An - đéc - xen ở trang 64. Sau đó xác định các từ ngữ và câu có tác dụng nối giữa các đoạn văn trong văn bản đó. Tới tiết 18, bài 5 - Tóm tắt văn bản tự sự, trong phần kiểm tra bài cũ, giáo viên mời học sinh trình bày rồi giáo viên kết luận những từ ngữ, câu có tác dụng nối như: - Em quẹt que diêm thứ hai, - Em quẹt que diêm thứ ba. - Em quẹt que diêm nữa vào tường, - Thế là - Sáng hôm sau, - Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy Ví dụ 2: Cũng như ở ví dụ 1, nhưng có thể cho học sinh tìm phương tiện liên kết trong văn bản “ Đánh nhau với cối xay gió” của Xéc - van - tét, ở văn bản này thì dễ nhận biết hơn. Học sinh có thể tìm được các phương tiện liên kết: Vừa bàn tán về cuộc phiêu lưu mới xảy ra, Đêm hôm ấy, Trên cơ sở bài tập này, giáo viên đã giúp học sinh khắc sâu kiến thức phần lí thuyết, từ đây có thể cho học sinh thực hành việc liên kết đoạn văn. Việc viết các đoạn văn có sự liên kết với nhau đối với học sinh trung bình và yếu là tương đối khó. Cho nên trong quá trình dạy tôi luôn có những đoạn văn mẫu cho các em. Bên cạnh đó tôi cho đọc bài mẫu của các em học sinh khá giỏi. Đồng thời luôn khích lệ tinh thần cho các em. -11- Nguyễn Thị Thu Hường Trường THCS An Phú
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lam_tot.doc

