SKKN Kinh nghiệm bồi dưỡng năng lực tự học môn Vật lý cho học sinh Lhối 9

docx 11 trang lynguyen 01/12/2025 160
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Kinh nghiệm bồi dưỡng năng lực tự học môn Vật lý cho học sinh Lhối 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Kinh nghiệm bồi dưỡng năng lực tự học môn Vật lý cho học sinh Lhối 9

SKKN Kinh nghiệm bồi dưỡng năng lực tự học môn Vật lý cho học sinh Lhối 9
 PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO QUẬN 2
 TRƯỜNG THCS NGUYỄN THỊ ĐỊNH
 SÁNG KIẾN
 ĐỀ TÀI:
 KINH NGHIỆM BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC 
TỰ HỌC MÔN VẬT LÝ CHO HỌC SINH 
 KHỐI 9
 Họ và tên: PHẠM VĂN SƠN
 Trường: THCS Nguyễn Thị Định
 Tổ: Lí – Hóa – Mĩ Thuật – Âm nhạc
 Năm học: 2018 – 2019 b. Những lợi ích của việc tự học :
- Tự học giúp học sinh chủ động, linh hoạt về mặt thời gian.
- Học sinh tự hình thành được kỹ năng giải quyết vấn đề, biến những thứ đã học 
thành của riêng mình nên từ đó nhớ lâu đồng thời giúp kết nối thông tin tốt hơn 
giữa các nội dung kiến thức tương tự nhau.
- Trong quá trình tự học, bạn cũng sẽ có điều kiện xem xét đúng sức học, kiểm tra 
đúng trình độ của bản thân.
- Tự học đối với học sinh lớp 9 chỉ đơn giản là các em tự có thể làm bài tập trong 
sách giáo khoa, của thầy cô giao một cách tự giác giúp việc ghi nhớ kiến thức tốt 
hơn. Ở mức độ cao hơn học sinh có thể tự mình tự tìm hiểu và học những kiến thức 
liên quan đến môn học ở những tài liệu tham khảo liên quan, các sách nâng cao 
và từ đó cũng làm nền tảng cho các em biết cách tự học nhiều kỹ năng sống và 
những kiến thức xã hội rộng lớn phục vụ cho đời sống xã hội sau này.
c. Hạn chế của tự học :
- Nếu tự học không đúng cách sẽ mất rất nhiều thời gian cho việc lĩnh hội kiến 
thức cũng như theo kịp những nội dung học tập trên lớp.
- Học sinh còn thiếu tài liệu học tập, đôi khi còn tiếp cận một vài kiến thức sai lệch 
từ một vài tài liệu không chính thống.
2. THỰC TRẠNG
 Để có sự nhìn nhận tổng thể về khả năng tự học của học sinh trong trường 
tôi có khảo sát 100 học sinh khối 9 vào đầu năm học 2018 - 2019 ở trường THCS 
Nguyễn Thị Định như sau:
 PHIẾU TRẮC NGHIỆM
Câu 1
Ở nhà lúc rãnh rỗi em thường làm gì?
A. Chơi điện tử, xem phim
B. Học và làm bài thầy cô giao
C. Ngủ
D. Phụ giúp gia đình
Câu 2
Việc học ở nhà của em là do:
A. Ba mẹ nhắc học
B. Sợ bị điểm kém
C. Muốn học giỏi hơn
D. Không học ở nhà
Câu 3
Mỗi ngày em giành bao nhiêu thời gian cho việc học?
A. 1 tiếng
B. 2 tiếng
C. 3 tiếng
D. không học
Câu 4
Lý do em không học ở nhà là: d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:
- Từ thực tế giảng dạy tôi nhận thấy rằng việc các em ít học ở nhà cũng như khả 
năng tự học của các em còn yếu là do nhiều nguyên nhân như: Do đặc điểm lứa 
tuổi, do hoàn cảnh sống và môi trường tác động, ở đây vì nhiều gia đình có hoàn 
cảnh khó khăn nên số học sinh bỏ học giữa chừng để làm kinh tế phụ giúp gia đình 
là phổ biến, các em thấy bạn cùng lứa tuổi mình đã có thể kiếm được tiền mà 
không cần học tập nhiều cộng với việc tiếp thu các môn học gặp nhiều khó khăn 
cũng góp phần làm các em lơ là việc học nên tự bản thân học sinh chưa có động 
lực để học tập. Ngoài những nguyên nhân khách quan trên cũng còn một phần là 
do kiến thức môn vật lý trừu tượng, khó tiếp thu đối với học sinh, số lượng bài tập 
nhiều và khó cũng góp phần tạo nên sự chán nản nơi học sinh.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
- Từ các vấn đề mà thực trạng đã nêu, cũng như qua khảo sát ban đầu về khả năng 
tự học môn vật lý của học sinh khối 9 tương đối thấp ở đây có 2 nguyên nhân chủ 
yếu:
- Thứ nhất, là yếu tố ngoại cảnh, do môi trường sống, bạn bè và gia đình tác động 
đến sự tự học của học sinh nói chung. Với nguyên nhân này giải pháp khắc phục là 
cần tăng cường sự phối hợp tốt hơn nữa giữa nhà trường và gia đình học sinh, đặc 
biệt là những em mà gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn, sự động viên khích lệ 
của giáo viên dành cho gia đình và bản thân các em là cần thiết.
- Thứ hai, là do đặc điểm môn học và phương pháp giảng dạy của giáo viên. Với 
đặc thù của môn vật lý 9 là nâng cao kiến thức vật lý 7 ở hai phần điện học và 
quang học. Trong chương trình lớp 7 các bài tập đưa ra chỉ mang tính chất định 
tính chủ yếu giải thích các hiện tượng vật lý xảy ra trong cuộc sống thông qua từng 
bài học cụ thể nên phần kiến thức này là khá dễ đối với học sinh. Tuy nhiên trong 
chương trình lớp 9 thì bài tập đưa ra mang tính định lượng, hầu như mỗi bài đều có 
công thức để tính toán và số lượng bài tập nhiều và khó đối với học sinh ( Các bài 
tập về mạch điện trong phần điện học, các bài tập về sự tạo ảnh và dựa vào kiến 
thức hình học môn toán để tính kích thước của ảnh tạo ra cũng như sự dịch chuyển 
của ảnh và vật). Tâm lý chung của học sinh là chỉ làm những bài tập tương tự 
với những bài tập mà thầy cô đã giải chứ các em không biết rằng chính những công 
thức căn bản ở từng bài học góp phần vận dụng vào làm những bài tập ở các bài 
học tiếp theo. 
Chẳng hạn ở phần điện học các công thức ở đầu chương như công thức định luật 
Ohm I = U/R, hay các công thức trong đoạn mạch nối tiếp:
I = I1 =I2 = .; U = U1+ U2 +;
trong đoạn mạch song song: I = I1+I2; U = U1 = U2 =
- Đây là những công thức căn bản có thể áp dụng vào cho cả chương điện học mà 
nếu các em ngay từ đầu không nắm vững thì sẽ rất khó vận dụng vào làm bài tập ở 
những bài học tiếp theo.
- Từ những khó khăn nêu trên mà học sinh khi học môn vật lý 9 mắc phải, với 
những kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm môn vật lý 9 tôi mạnh dạn đề xuất một 
vài giải pháp nhằm giúp các em khắc phục những khó khăn trên đồng thời thông thể đạt được thì chính bản thân các em sẽ tự nhắc mình là phải học để đạt được 
những mục tiêu đó. Nhưng giáo viên cũng cần thường xuyên nhắc nhở điều này 
với các em vì ở độ tuổi này tính kiên trì để theo đuổi mục tiêu là thấp nếu chúng ta 
chỉ nhắc nhở một, hai lần thì chắc chắn chỉ sau một thời gian ngắn thì các em lại bỏ 
quên mục tiêu của mình mà dễ dàng tham gia vào các trò chơi luôn hiện hữu hàng 
ngày quanh các em.
- Thứ ba, thầy cô cần hướng dẫn cho học sinh cách nghe và ghi bài giảng. Ở đây 
cần nhấn mạnh với học sinh rằng việc nghe giảng là vô cùng quan trọng. Cần tập 
trung cao độ khi nghe thầy cô giảng bài đặc biệt là khi thầy sửa sai cho bạn hoặc 
lưu ý những điểm chính trong bài. Nếu nghe tốt thì việc tái hiện lại để làm bài tập 
sẽ dễ dàng và mất ít thời gian hơn, nếu chép bài không kịp có thể chừa chỗ trống 
để bổ sung sau ( Vì đa số học sinh chỉ lo chép bài cho kịp mà phân tâm trong việc 
nghe giảng).
- Thứ tư, hướng dẫn học sinh cách học ở nhà.
Ở đây, tùy theo trình độ nhận thức của học sinh mà mỗi em có cách học ở nhà khác 
nhau. Nhưng điều quan trọng là làm sao để học sinh tự làm được bài tập ở phần đó 
với mục tiêu của bản thân đề ra chứ không phải là làm bài tập để đối phó với thầy 
cô. Với học sinh yếu và trung bình, trước tiên hướng dẫn cho các em cách học 
thuộc các công thức mà vừa được học trên lớp. Có thể ghi ra giấy nháp lặp đi lặp 
lại nhiều lần, sau đó làm lại bài tập đơn giản mà giáo viên đã giải ở trên lớp, với 
đối tượng học sinh này chỉ yêu cầu các em làm lại được bài giải đơn giản mà thầy 
cô đã giải và từ đó làm thêm một vài bài tập mức độ tương đương là được. Khi các 
em tự mình giải được bài tập sẽ rất thích thú và dần dần từ đó các em hình thành 
thói quen chăm chú nghe giảng và tự lực làm được bài tập với mức độ cơ bản, sau 
nâng dần lên mức cao hơn. Với đối tượng học sinh khá giỏi thì việc học thuộc công 
thức cơ bản cũng như làm những bài tập ở mức độ này là tương đối đơn giản. Tuy 
nhiên giáo viên cũng nên chỉ cách cho các em học những công thức căn bản tạm 
gọi là công thức “gốc” từ đó suy ra các công thức còn lại. 
Ví dụ liên quan đến công thức tính khối lượng của vật: m = v.D (Đọc là “Em về 
đi”) từ đó muốn tính thể tích hoặc khối lượng riêng có thể suy ra là V = m/D hoặc 
D = m/V . ; Công thức định luật ôm: I = U/R từ đó suy ra tính hiệu điện thế
 U = I.R hoặc tính điện trở R = U/IVà nhiều công thức khác nữa. Đối với đối 
tượng học sinh này đây là nguồn để sau này chúng ta chọn các em vào đội tuyển 
học sinh giỏi nên trước hết khi giao bài cho các em chúng ta yêu cầu các em làm
những bài tập căn bản như trong sách giáo khoa trước, sau một thời gian các em có 
thể tự làm được những dạng này rồi thì ta nâng dần mức độ khó lên, lúc này các 
em cũng quen dần với cách học và ít nhiều khi đọc các phần giải trong sách tham 
khảo cũng đã hiểu nên việc tự học của các em sẽ dần hình thành và lâu dần các em 
có thói quen sưu tầm những sách tham khảo với mức độ cao hơn để học. Từ đây 
giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cách chọn sách tham khảo để đọc cũng như 
mở rộng kiến thức cho mình thông qua các trang web trên internet
- Cuối cùng, giáo viên cần giao công việc về nhà cho học sinh. Các bài tập về nhà 
nên ra từ dễ đến khó để phù hợp với nhiều đối tượng học sinh, không ra bài tập quá d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Kết quả thu được sau khi áp dụng SKKN vào giảng dạy:
- Thời gian các em dành để học ở nhà tăng lên đáng kể, trong đó phần lớn các em 
xác định được mục tiêu của việc học ở nhà là nhằm nâng cao kết quả học tập cho 
bản thân như là muốn không phải thi lại, muốn đạt học sinh tiên tiến, học sinh 
giỏi...
4/ KẾT QUẢ:
- Qua một thời gian áp dụng vào giảng dạy môn vật lý ở khối lớp 9 kết quả thu 
được nổi bật nhất là các học sinh đã biết đặt được mục tiêu học tập phù hợp với 
khả năng của mình từ đó có ý thức tích cực trong học tập để mang lại kết quả cao 
hơn. Các em đã biết cách tự học, biết giành thời gian thích hợp cho việc học ở nhà 
và chuẩn bị bài cho bài học mới. Từ đó mà các em cũng dần yêu thích học môn vật 
lý hơn, chịu khó tìm hiểu những kiến thức liên quan đến môn vật lý đặc biệt là việc 
vận dụng vào giải thích những hiện tượng vật lý mà thường gặp trong đời sống.
III/ KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1/ Kết luận:
- Đề tài “ Kinh nghiệm bồi dưỡng năng lực tự học môn vật lý cho học sinh khối 9” 
không chỉ giúp học sinh biết cách tự học và nâng cao khả năng tự học môn vật lý 
mà còn áp dụng vào một vài môn khoa học tự nhiên khác như toán học, hóa học 
và qua đó các em cũng thích tìm hiểu những kiến thức liên quan đến môn học 
thông qua nhiều tài liệu và sách tham khảo.
- Để giúp học sinh học tập tích cực hơn vai trò của giáo viên là vô cùng quan trọng, 
không những đòi hỏi đầu tư nhiều thời gian cho việc nâng cao chuyên môn mà còn 
có những kỹ năng cần thiết khác trong việc tạo hứng thú học tập cho học sinh từ đó 
sẽ nâng cao khả năng tự học cho các em.
2. Kiến nghị
Để đề tài có thể áp dụng vào thực tế giảng dạy tôi xin đề xuất một vài ý kiến chủ 
quan như sau:
 • Đối với giáo viên:
- Luôn tìm tòi, sáng tạo trong dạy học nhằm thu hút học sinh tham gia tích cực hơn 
trong học tập.
- Tự học để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Sử dụng tốt CNTT trong 
dạy học nhằm tạo hứng thú cho học sinh
- Luôn động viên gia đình và bản thân học sinh đặc biệt là những em có hoàn cảnh 
khó khăn.
 • Đối với học sinh:
- Lập kế hoạch, chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức.
- Phương pháp tự học đi kèm với sự kiên trì và nhẫn nại, kỉ luật chặt chẽ với bản 
thân khi tự học.
- Học cách ghi nhớ, chọn lọc thông tin và kiến thức phù hợp.. 

File đính kèm:

  • docxskkn_kinh_nghiem_boi_duong_nang_luc_tu_hoc_mon_vat_ly_cho_ho.docx