SKKN Nâng cao khả năng chủ động sáng tạo của các học sinh trong tiết dạy Speaking - Môn Tăng cường Tiếng Anh Lớp 6,7
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Nâng cao khả năng chủ động sáng tạo của các học sinh trong tiết dạy Speaking - Môn Tăng cường Tiếng Anh Lớp 6,7", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Nâng cao khả năng chủ động sáng tạo của các học sinh trong tiết dạy Speaking - Môn Tăng cường Tiếng Anh Lớp 6,7
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên đề tài: “NÂNG CAO KHẢ NĂNG CHỦ ĐỘNG SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TRONG TIẾT HỌC SPEAKING - TĂNG CƯỜNG TIẾNG ANH LỚP 6,7” Người viết: VŨ DOAN KHƯƠNG – GVBM: Tiếng Anh Đơn vị: THCS AN PHU I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Tiếng Anh là môn xã hội, là ngôn ngữ giao tiếp, là nhịp cầu tình bạn giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. Trước đây mục tiêu chủ yếu của việc dạy và học ngoại ngữ là đọc hiểu để phục vụ nghiên cứu văn học, khoa học kỹ thuật. Ngày nay nhằm phục vụ chính sách mở cửa, đổi mới, hòa nhập của khu vực và thế giới, mục tiêu cuối cùng của việc học dạy và học ngoại ngữ là để giao tiếp dưới các hình thức nghe – nói – đọc – viết, tức là để có thể giao tiếp bằng ngoại ngữ mình học và biết vận dụng vào thực tế cuộc sống. Xuất phát từ mục tiêu đó, việc dạy và học ngoại ngữ đã trở thành môn học bắt buộc trong các trường học THCS, học sinh THCS là khối học sinh đầu tiên được học Tiếng Anh một cách bài bản. Đặt biệt, Sở giáo dục và đào tạo Tp. Hồ Chí Minh thời gian gần đây đã mạnh dạn đưa chương trình tăng cường Tiếng Anh vào chương trình học nhằm mục đích trao dồi thêm cho học sinh khả năng giao tiếp Tiếng Anh. Đối với học sinh hiện nay, việc học Tiếng Việt đã khó, học ngoại ngữ lại còn khó hơn. Do đó, việc phải gây hứng thú, tự tin, say mê, cố gắng học tập của bản thân các em cũng là một trách nhiệm của người giáo viên đứng lớp. Chính vì thế, ngoài việc giảng dạy theo sách giáo khoa, đòi hỏi giáo viên phải luôn nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp thích hợp nhất để lôi tạm trú, chỗ ở và cơng việc khơng ổn định. Nhiều gia đình cịn phĩ thác việc giáo dục cho nhà trường, chưa kết hợp chặt chẽ, tích cực, để giáo dục các em. Về bản thân học sinh, nhiều học sinh chưa cĩ ý thức tự giác học tập, thái độ học thụ động khơng cĩ động cơ học tập, tâm lý thích chơi hơn thích học. Chưa cĩ phương pháp học tập phù hợp, chưa nhận thấy tầm quan trọng của việc học, cĩ tâm lý sợ học quá nhiều, khơng thấy hứng thú khi đi học. Thực tế cho thấy ở một số tiết học, tơi nhận thấy vẫn cịn một số giáo viên ngại đổi mới phương pháp dạy học theo lối áp đặt, do đĩ chỉ cĩ 15 – 20% học sinh suy nghĩ và làm việc tích cực, số học sinh cịn lại cưỡng chế ghi bài và lắng nghe một cách thụ động, máy mĩc mà khơng hiểu được nội dung của bài. Đầu năm tơi thực hiện một cuộc khảo sát về mức độ yêu thích các mơn học của học sinh khối 6 và kết quả thu được như sau: Môn Tỷ lệ Lý do Nhạc 98% Được múa hát vui Họa 89% Được vẽ, ít phải viết bài Thể dục 98% Được chạy nhảy hoạt động Tin học 94% Học xong còn ít thời gian được chơi game Công nghệ 82% Được thưởng thức thức ăn cho do mình làm ra Sinh học 86% Xem nhiều sinh vật dưới kính hiển vi Địa lý 79% Biết được thêm về nơi em ở Toán 35% Biết cách tính toán Ngữ văn 30% Viết được cảm xúc, trình bày được tình cảm của mình Tiếng Anh 34% Có thể giao tiếp bằng tiếng Anh Vật lý 58% Biết cách giải thích các hiện tượng Lịch sử 79% Nắm được các triều đại, các vị vua Qua khảo sát trên tôi nhận thấy đa phần các em thích chơi hơn thích học bằng kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, trao đổi với bạn bè, đồng nghiệp trong và ngoài trường, tôi đã thử áp dụng phương pháp phù hợp với - Unit 10 phần E, exercise 7 ,trang 103 có bài “Car Wash”. Nhịp điệu nhanh (rock music). - Unit 1 phần E ,exercise 7: “Sk8er Boi”. 2) Phát huy phương pháp học tập cá nhân và ánh sáng tạo của học sinh: - Giáo viên giúp các em ý thức được về bản chất quá trình tiếp thu ngôn ngữ và khuyến khích các em tìm ra phương pháp học tập thích hợp nhất cho mình, hướng dẫn các em phương pháp học tập, các thủ thuật học tập và thực hành giao tiếp. Ngoài ra, giáo viên luôn tạo điều kiện cho học sinh được tham gia đóng góp kinh nghiệm và hiểu biết cá nhân vào quá trình học, tạo cho các em tính tự chủ và phát huy được tính chủ động sáng tạo trong học tập và khơi gợi tiềm năng của các em hơn. 3) Tạo cơ hội tối đa cho việc luyện tập sử dụng ngôn ngữ qua các bài thuyết trình: - Giáo viên cần quan tâm sử dụng tối đa thời gian trên lớp, tạo mọi cơ hội để học sinh có thể sử dụng ngôn ngữ đã học một cách có nghĩa và hiệu quả nhất. Để làm tốt việc này, cần phát huy các hoạt động cặp, nhóm và các thủ thuật lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động trên lớp một cách tích cực. - Cần sử dụng Tiếng Anh trong giao tiếp trong lớp học đến mức tối đa có thể: giữa học sinh với học sinh, giữa nhóm học sinh trong lớp, giữa giáo viên với học sinh. Nên sử dụng Tiếng Việt khi cần thiết như: để giải thích những từ khi chỉ khái niệm phức tạp, trừu tượng các cấu trúc ngữ pháp khó hoặc để giải thích những yêu cầu của giáo viên về bài tập. - Unit 8 phần C: “Traditionl sishes” - Unit 8 phần E: “Healthy eating” Đối với mỗi chủ đề, tôi luôn có một bài báo, hay một bài nói chuyện mẫu cho các em trước. Sau đó uyển chuyển thay đổi từng đội nhóm hay cá nhân đưa ra thang điểm chấm rõ ràng để các em nhìn thấy rõ kết quả của công việc mà các em đã làm, song song đó cũng giáo dục được tính đoàn kết giúp đỡ cùng tiến bộ trong lớp. 4) Giải pháp thúc đẩy động cơ học tập của học sinh: Trong quá trình tiếp thu ngơn ngữ, học sinh sẽ đạt được kết quả học tập nếu các em có động cơ học tập. Động cơ học tập có được khi các em cảm thấy được sự hứng thú với các môn học và cảm thấy được sự tiến bộ của chính mình. Do vậy, giáo viên nên sử dụng các tình huống thách đố, hấp dẫn lôi cuốn các em vào hoạt động trên lớp vừa mang tính chất yêu cầu cao, vừa phù hợp với tình độ để các em có thể cảm nhận được sự tiến bộ của mình trong học tập. Để giúp các em cảm nhận được sự tiến bộ trong học tập, giáo viên cần đề ra những mục tiêu vừa sức, không quá cao. Ngoài ra cần khuyến khích học sinh học theo phương châm thử nghiệm và chấp nhận mắc lỗi trong quá trình thực hành tiết- không nên tạo cho các em tâm lý sự mắc lỗi trong thực hành. Học sinh sẽ đạt được kết quả cao nếu các em xác định được động cơ học tập của mình. Đối với học sinh lớp 6, động cơ học tập có được khi các em cảm thấy có hứng thú với môn học và thấy được sự tiến bộ của mình qua các giờ học. Trong các tiết dạy có những học sinh biết nhưng không dám nói vì sợ mắc lỗi. Một số em khác không dám giơ tay phát biểu vì sợ nói sai các bạn cười, thầy cô chê. Theo tôi thấy đây là yếu tố tâm lý mà giáo viên ngoại ngữ nhất để nhà trường khen thưởng nhờ thế mà hình thành ở các em một nguồn động lực học tập rất lớn. Tuy nhiên, để duy trì được hứng thú và động cơ học tập của học sinh trong suốt quá trình giảng dạy không phải là một điều đơn giản. Nên người giáo viên cần phải cố gắng rất nhiều trong việc trau dồi cho mình các năng lực, phẩm chất nghề nghiệp, cùng với tấm lòng kiên nhẫn và tình yêu tha thiết học sinh cũng như biết kết hợp thuần nhuyễn, khéo léo giữa hai loại động lực bên trong và bên ngoài thì mới có thể khiến học sinh có hứng thú trong học tập. V/ KẾT QUẢ THỰC HIỆN Sau khi tập trung nghiên cứu đề tài “Nâng cao khả năng chủ động sáng tạo của học sinh trong tiết học Speaking- môn tăng cường tiếng Anh lớp 6,7” tại cơ sở, cụ thể các lớp 6A1, 7A ở trường THCS những năm qua, tôi nhận ra các em có sự tiến bộ và mạnh dạn hẳn ra, khi cùng bạn mình diễn một cuộc thoại trước lớp, qua đó tôi cũng phát hiện ra những em có khả năng nói chuyện trước công chúng, bồi dưỡng để các em phát huy và tự tin hơn khi giao tiếp tiếng Anh trước lớp và đám đông, còn đối với các em e dè, nhút nhát và ngại nói tiếng Anh, tôi đã giúp các em tự tin hơn và không còn sợ sệt khi nói trước lớp và có thể giao tiếp đàm thoại những câu đơn giản trong lớp mặc dù các em cũng đã nổ lực và dần dần có tiến bộ trong luyện tập, thực hành giao tiếp tiếng Anh vào giờ học. Đây cũng là những ứng dụng tương đối dễ thực hiện trong tiết dạy tiếng Anh, tuy nhiên tiếng ồn không thể tránh khỏi trong các hoạt động thi đua giữa các nhóm nhưng tiếng ồn này cũng giúp các em tạo hứng thú trong giờ học tiếng Anh thêm sinh động. Chất lượng khảo sát qua các bài kiểm tra (*các lớp 6,7 tăng cường tiếng Anh) pháp lạc hậu, những bài học nhàm chán thay vào đó là những gì chúng ta đang có trong chương trình. 2/ Hạn chế Để có những điều kiện tích cực trên song cũng còn những mặt hạn chế sau: - Lượng bài quá nhiều so với lượng thời gian cho phép - Trang thiết bị chưa đủ - Việc sử dụng các đồ dùng dạy học chưa nhuần nhuyễn - Giáo viên chưa hiểu rõ mục tiêu đào tạo của chương trình toàn cấp cũng như mục tiêu của từng khối lớp, từng bài cụ thể VII/ KẾT LUẬN Nói tóm lại, chương trình môn Tiếng Anh tăng cường được thực hiện theo phương pháp giao tiếp chính trong rèn luyện thực hành ngôn ngữ thông qua 4 kỹ năng nghe-nói-đọc-viết. Điều cần chú ý là ngữ pháp không phải là đích cuối cùng của quá trình bài dạy mà là phương tiện để thực hiện các mục tiêu giao tiếp mà bài học đã đề ra. Để viết nên đề tài này, bản thân tôi cũng đã bước qua 2 năm thử nghiệm và đã gặt hái nhiều thành công. Song tôi hy vọng rằng với cái nhìn cụ thể của tôi cùng sự giúp đỡ của các bạn đồng nghiệp, chúng tôi sẽ có được định hướng chung để giảng dạy tốt môn tiếng Anh lớp 6,7 hôm nay và trong tương lai. Trong suốt quá trình công tác tại đơn vị trường trung học cơ sở An Lạc cho đến nay, tôi đã đúc kết cho mình nên bài viết này với mong muốn truyền tải đến các bạn đồng nghiệp một số kinh nghiệm cá nhân. Song song đĩ tôi vẫn tự nói rằng cũng chính bài viết này là kết quả giảng dạy của tôi trong thời gian qua. Cụ thể: - Luôn là lớp : Xuất sắc - Chỉ tiêu cuối năm đạt: Tốt - Cụ thể 5 năm gần nhất + Năm 2007 – 2008 : Chủ nhiệm lớp 6A1 “Lớp xuất sắc” + Năm 2008 – 2009 : Chủ nhiệm lớp 6A1 “Lớp xuất sắc” + Năm 2010 – 2011 : Chủ nhiệm lớp 6A1 “Lớp xuất sắc” + Năm 2011 – 2012 : Chủ nhiệm lớp 6A1 “Lớp xuất sắc” + Năm 2012 – 2013 : Chủ nhiệm lớp 6A2 “Lớp xuất sắc” Trên đây là bản thành tích mà tôi đã đạt được trong thời gian qua, mặt dù còn nhiều việc hạn chế nhưng tôi cũng tự mãn nguyện với mình đã làm hết sức mình phục vụ cho công việc, cho nghề nghiệp. Luôn lắng nghe và trao dồi kiến thức chuyên môn cùng các bạn đồng nghiệp. Mong rằng tôi sẽ còn nhiều cơ hội để phục vụ tốt hơn cho nghề nghiệp, lập thêm nhiều thành tích tốt hơn nữa để chứng minh cho đề tài này một cách hữu hiệu nhất. An Phú, Ngày 15 tháng 10 năm 2019 Người viết VŨ DỖN KHƯƠNG
File đính kèm:
skkn_nang_cao_kha_nang_chu_dong_sang_tao_cua_cac_hoc_sinh_tr.docx

